AzThuoc.com chia sẻ bài viết về: Thuốc Octremon công dụng, tác dụng phụ – liều lượng, Thuốc Octremon điều trị bệnh gì. BÌNH LUẬN cuối bài để biết: Mua bán Thuốc Octremon ở đâu? giá bao nhiêu? Vui lòng tham khảo các chi tiết dưới đây.
Octremon

Thành phần:
Nhà sản xuất: | Gerardo Ramón & Cía.SAIC – ÁC HEN TI NA | ||
Nhà đăng ký: | Công ty CP Dược phẩm Duy Tân (DUYTANPHARMA) | ||
Nhà phân phối: |
Chỉ định:
Liều lượng – Cách dùng
Chống chỉ định:
Tương tác thuốc:
Tác dụng phụ:
Phản ứng tại chỗ sau khi dùng thuốc qua đường dưới da bao gồm đau hay cảm giác nhức, cảm giác nhói hay nóng tại chỗ tiêm, sưng và đỏ. Các dấu hiệu này thường ít khi kéo dài quá 15 phút và có thể làm giảm nhẹ bằng cách để dịch thuốc lên tới nhiệt độ trong phòng trước khi tiêm hay tiêm với liều lượng nhỏ hơn với dịch thuốc đặc hơn.
Các tác dụng ở đường tiêu hóa bao gồm chán ăn, buồn nôn, nôn, đau quặn bụng, chướng bụng, đầy hơi, phân lỏng, ỉa chảy và đi ngoài phân mỡ.
Dù lượng mỡ đào thải qua phân có thể tăng, hiện chưa thấy có bằng chứng về việc điều trị lâu dài với Octreotide có thể dẫn tới suy dinh dưỡng do giảm hấp thu. Trong một số ít trường hợp có thể có các triệu chứng giống tắc ruột cấp như đau nặng vùng thượng vị và nhạy cảm đau khi ấn, chướng và nề bụng. Có thể làm giảm các tác dụng phụ nhờ tránh ăn ở quanh thời điểm dùng thuốc, tiêm thuốc ở khoảng giữa các bữa ăn hay khi đi ngủ.
Điều trị lâu dài Octreotide có thể tạo nên sỏi mật (xem Thận trọng lúc dùng).
Do tác dụng kiềm chế sự giải phóng hormone tăng trưởng, glucagon và insulin, Octreotide có thể làm ảnh hưởng đến sự điều hòa glucose. Dung nạp glucose sau khi ăn có thể bị ảnh hưởng và dẫn tới làm tăng đường huyết thường xuyên ở một vài bệnh nhân dùng thuốc trong thời gian dài.
Hạ đường huyết cũng được ghi nhận.
Hiếm gặp rụng tóc ở bệnh nhân điều trị với Octreotide.
Viêm tụy cấp được ghi nhận ở một vài trường hợp, thường thấy xuất hiện trong vòng vài giờ hay vài ngày đầu điều trị Octreotide và hết dần sau khi ngừng thuốc. Viêm tụy cấp cũng có thể gặp ở những bệnh nhân điều trị Octreotide lâu dài có phát triển sỏi mật.
Trường hợp cá biệt, ghi nhận có rối loạn chức năng gan khi dùng Octreotide. Các biểu hiện này bao gồm :
– Viêm gan cấp không kèm theo ứ mật và chỉ số transaminase sẽ trở về bình thường khi ngừng thuốc.
– Tăng bilirubin huyết chậm kèm với sự tăng alkaline phosphatase, γ-glutamyl transferase và ở mức độ thấp hơn, transaminase.
Chú ý đề phòng:
Sự hình thành sỏi mật được ghi nhận từ 10-20% bệnh nhân dùng Octreotide trong thời gian dài. Kiểm tra siêu âm túi mật trước và trong quá trình điều trị Octreotide mỗi 6-12 tháng là cần thiết.
Ở một vài bệnh nhân có khối u thuộc hệ nội tiết dạ dày – ruột-tụy điều trị Octreotide có gặp trường hợp bộc phát không kiềm chế được các triệu chứng với biểu hiện tái phát các triệu chứng nặng.
Ở những bệnh nhân u đảo tụy, Octreotide có thể làm tăng tình trạng hạ đường huyết và kéo dài do có tác dụng ức chế bài tiết hormone tăng trưởng và glucagon tương đối mạnh hơn là insulin. Những bệnh nhân này cần được theo dõi chặt chẽ khi bắt đầu điều trị với Octreotide và mỗi khi thay đổi liều dùng. Những biến đổi về nồng độ glucose trong máu có thể được hạn chế bằng việc dùng những liều nhỏ và thường xuyên hơn. Đối với những bệnh nhân đái đường phụ thuộc insulin, có thể cần điều chỉnh lượng insulin điều trị khi dùng kết hợp với Octreotide.
Ở bệnh nhân xơ gan trong trường hợp xuất huyết làm tăng nguy cơ đái đường phụ thuộc insulin hoặc các thay đổi về nhu cầu dùng insulin ở những người đã mắc bệnh đái đường từ trước, việc theo dõi chặt chẽ nồng độ glucose trong máu là cần thiết.
Lúc có thai và lúc nuôi con bú
Các nghiên cứu về sinh sản trên động vật không cho thấy có nguy cơ nào về tổn thương bào thai nhưng hiện chưa có kinh nghiệm về sử dụng Octreotide ở phụ nữ có thai hoặc cho con bú. Những bệnh nhân này vì vậy chỉ được dùng thuốc nếu thật cần thiết.
Thông tin thành phần Octreotide
Dược lực:
Dược động học :
– Phân bố: octreotide được phân bố theo tính chất dược động học đã biết của nó như đã được mô tả trong tiêm dưới da. Khối lượng phân bố của octreotide ở trạng thái ổn định là 0,27L/kg và độ thanh thải toàn phần của cơ thể là 160mL/phút. Lượng gắn với protein huyết tương lên tới 65% và chủ yếu là không có thuốc gắn với tế bào máu.
Tác dụng :
Ở người khỏe mạnh, octreotide giống như Somatostatin cho thấy các tác dụng ức chế đối với:
– Sự giải phóng hormone tăng trưởng (GH) kích thích bởi arginine, vận động và giảm đường huyết do insulin.
– Sự giải phóng insulin, glucagon, gastrin, các peptide khác thuộc hệ GEP và sự giải phóng insulin và glucagon kích hoạt bởi arginine xảy ra sau bữa ăn.
– Sự giải phóng kích giáp tố (TSH: thyroid-stimulating hormone) do hormone hướng giáp (thyrotropine-releasing hormone: TRH).
Ở bệnh nhân to viễn cực (bao gồm cả những người không đáp ứng với điều trị phẫu thuật, tia xạ hay dùng dopamine chủ vận), Octreotide, một công thức bào chế của octreotide phù hợp cho việc điều trị nhiều lần cách nhau 4 tuần, cung cấp đều đặn nồng độ điều trị trong huyết thanh của octreotide, do đó liên tục làm giảm nồng độ hormone tăng trưởng và/hoặc somatomedin C trong huyết tương.
Với những bệnh nhân có khối u của hệ nội tiết dạ dày-ruột-tụy, Octreotide do tác dụng nhiều mặt về nội tiết, làm thay đổi nhiều bệnh cảnh lâm sàng.
Chỉ định :
– đã được kiểm soát thoả đáng bằng Octreotide tiêm dưới da, mà phẫu thuật, liệu pháp tia xạ hoặc chất chủ vận dopamine là không thích hợp hoặc không hiệu quả, hoặc trong giai đoạn tạm thời tới khi liệu pháp tia xạ hoàn toàn có hiệu quả. Ðiều trị những bệnh nhân có triệu chứng kết hợp với các u nội tiết cơ năng đường ruột-dạ dày-tuỵ mà triệu chứng đã được điều trị tốt bằng Octreotide tiêm dưới da;
– các u carcinoid với những đặc điểm của hội chứng carcinoid.
– các u VIP (VIP omas: u tụy chế tiết nhiều peptide vận mạch đường ruột).
– các u glucagon (glucagonomas: tiết glucagon quá mức).
– các u gastrine/ hội chứng Zollinger-Ellison.
– các u insulin, để khống chế hạ đường huyết trước phẫu thuật và điều trị bảo tồn.
– các u GRF (Yếu tố giải phóng hormone sinh trưởng).
Liều lượng – cách dùng:
Bệnh to cực:
Với bệnh nhân đã được điều trị tốt bằng Octreotide tiêm dưới da, nên bắt đầu điều trị bằng Octreotide 20mg cách nhau 4 tuần trong vòng 3 tháng. Ðiều trị bằng Octreotide có thể bắt đầu ngay sau ngày dùng liều tiêm Octreotide tiêm dưới da lần cuối cùng. Việc điều trị chỉnh liều lượng sau đó sẽ dựa vào nồng độ huyết thanh của hormone sinh trưởng (GH) và yếu tố sinh trưởng 1 (IGF1) giống insulin/somatomedin C và triệu chứng lâm sàng.
Với những bệnh nhân mà trong thời gian 3 tháng kể trên vẫn không kiểm soát tốt các triệu chứng lâm sàng và thông số sinh hoá (GH, IGF1) (nồng độ GH vẫn trên 2,5mcg/L), có thể tăng liều lượng lên 30mg, cách nhau 4 tuần. Với những bệnh nhân có nồng độ GH luôn dưới 1mcg/L và nồng độ IGF1 huyết thanh đã trở lại bình thường, và hầu hết các dấu hiệu và triệu chứng của bệnh to cực đã mất đi sau 3 tháng điều trị với liều 20mg, có thể cho liều 10 mg Octreotide cách nhau 4 tuần. Tuy nhiên, đặc biệt trong nhóm bệnh nhân này, nên theo dõi chặt chẽ các nồng độ huyết thanh của GH và IGF1 và các dấu hiệu/triệu chứng lâm sàng trong khi dùng liều Octreotide thấp như vậy.
Ðối với những bệnh nhân mà phẫu thuật, liệu pháp tia xạ hoặc liệu pháp chủ vận dopamine không thích hợp hoặc không có hiệu quả, trong giai đoạn tạm thời chờ cho liệu pháp tia xạ có hiệu quả, nên tiến hành một đợt điều trị thử ngắn với Octreotide tiêm dưới da để đánh giá đáp ứng và khả năng dung nạp toàn thân với octreotide trước khi khởi đầu điều trị bằng Octreotide như đã mô tả ở trên.
Các khối u nội tiết dạ dày-ruột-tụy:
Với những bệnh nhân mà triệu chứng đã được kiểm soát thoả đáng bằng Octreotide tiêm dưới da, nên bắt đầu điều trị bằng Octreotide 20mg cách nhau 4 tuần một lần. Ðiều trị bằng Octreotide tiêm dưới da có thể tiếp tục với liều trước đây đã có hiệu quả vào 2 tuần sau khi tiêm Octreotide lần đầu tiên. Ðối với những bệnh nhân trước đây không được điều trị bằng Octreotide tiêm dưới da, nên bắt đầu điều trị bằng Octreotide dưới da với liều 0,1mg, 3 lần mỗi ngày trong một thời gian ngắn (xấp xỉ 2 tuần) để đánh giá đáp ứng và khả năng dung nạp của cơ thể với octreotide trước khi khởi đầu điều trị bằng Octreotide như đã mô tả ở trên.
Với những bệnh nhân có triệu chứng và các dấu hiệu sinh học (biological markers) được kiểm soát tốt sau 3 tháng điều trị, liều lượng có thể giảm tới 10mg Octreotide cách nhau 4 tuần một lần.
Với những bệnh nhân mà triệu chứng mà triệu chứng chỉ được khống chế một phần sau 3 tháng điều trị, liều lượng có thể tăng lên tới 30mg Octreotide cách nhau 4 tuần một lần. Trong những ngày mà những triệu chứng kết hợp với các u dạ dày-ruột-tuỵ có thể tăng lên trong khi điều trị bằng Octreotide, nên bổ sung thêm Octreotide tiêm dưới da với liều đã dùng trước khi điều trị bằng Octreotide. Ðiều này có thể xảy ra chủ yếu trong 2 tháng điều trị đầu tiên cho tới khi đạt được nồng độ điều trị của octreotide.
Dùng trong bệnh nhân suy giảm chức năng thận:
Suy giảm chức năng thận không ảnh hưởng tới mức độ hấp thu toàn phần (AUC) với octreotide khi dùng đường dưới da bằng Octreotide. Do đó, không cần phải điều chỉnh liều lượng của Octreotide.
Dùng trong bệnh nhân suy giảm chức năng gan:
Trong một nghiên cứu với Octreotide tiêm dưới da và tĩnh mạch, người ta thấy khả năng thải trừ có thể bị giảm ở bệnh nhân xơ gan, nhưng không thấy ở bệnh nhân có bệnh mỡ hoá gan. Do giải chỉ định điều trị rộng của octreotid, không cần điều chỉnh liều lượng Octreotide ở bệnh nhân xơ gan.
Dùng ở người cao tuổi:
Trong một nghiên cứu với Octreotide tiêm dưới da, không cần diều chỉnh liều lượng ở bệnh nhân ≥ 65 tuổi. Do đó cũng không cần điều chỉnh liều lượng cho nhóm bệnh nhân này đối với Octreotide.
Dùng ở trẻ em:
Hiện có rất ít kinh nghiệm trong sử dụng Octreotide ở trẻ em.
Chống chỉ định :
Tác dụng phụ
Do tác dụng ức chế bài tiết insullin, Octreotide có thể làm giảm dung nạp glucose, có thể làm tăng đường huyết sau khi ăn. Hiếm gặp trường hợp tăng đường huyết dai dẳng khi điều trị kéo dài. Trường hợp cá biệt có ghi nhận sự rối loạn chức năng gan do thuốc. Các biểu hiện này bao gồm:
– Viêm gan cấp không kèm theo ứ mật và chỉ số transaminase sẽ trở về bình thường khi ngừng thuốc.
– Tăng bilirubin huyết chậm kèm với sự tăng alkaline phosphatase, gamma glutamil transferase và ở mức độ thấp hơn, transaminase.
Một số dấu hiệu rụng lông tóc đã gặp trong bệnh nhân điều trị bằng Octreotide. Trong một số rất ít trường hợp, đã gặp viêm tuỵ cấp trong vài giờ hoặc vài ngày đầu điều trị bằng Octreotide. Ngoài ra, sỏi đường mật gây viêm tuỵ cấp cũng thấy trong bệnh nhân điều trị lâu dài bằng Octreotide.
Nguồn tham khảo drugs.com, medicines.org.uk, webmd.com và azthuoc.com tổng hợp.
Tuyên bố miễn trừ trách nhiệm y tế
Nội dung của AZThuoc.com chỉ nhằm mục đích cung cấp thông tin về Thuốc Octremon và không nhằm mục đích thay thế cho tư vấn, chẩn đoán hoặc điều trị y tế chuyên nghiệp. Vui lòng liên hệ với bác sĩ hoặc phòng khám, bệnh viện gần nhất để được tư vấn. Chúng tôi miễn trừ trách nhiệm y tế nếu bệnh nhân tự ý sử dụng thuốc mà không tuân theo chỉ định của bác sĩ.
Cần tư vấn thêm về Thuốc Octremon bình luận cuối bài viết.